Ý Nghĩa Hình Tượng Đức Quan Âm Thiên Thủ Thiên Nhãn

Thiên Thủ Thiên Nhãn Quan Âm Bồ Tát, gọi ngắn gọn là Thiên Thủ Quan Âm, hay còn gọi là Thiên Nhãn Thiên Tý Quán Thế Âm. Theo kinh Phật, vị Quan Âm Thiên Thủ có nghìn tay nghìn mắt biểu thị sự viên mãn vô ngại, nếu chúng sinh trì niệm phụng thờ Ngài thì Bồ tát sẽ dùng nghìn tay hộ trì, nghìn mắt chiếu thấy để tiêu diệt tai họa, hàng phục tà ma. Đức Quan Thế Âm Tự Tại vì lòng từ bi phát khởi bi nguyện muốn cứu độ chúng sinh thoát khỏi vô minh mê vọng, không phải chịu khổ trong ba đường ác. Đức Phật Di Đà phóng quang gia trì khiến đức Quan Âm Bồ Tát hoá hiện mười một đầu, đầu trên cùng là Đức Phật Di Đà và pháp tướng Ngài có nghìn mắt nghìn tay để có thêm phương tiện tức tốc cứu độ chúng sinh.

Thiên Thủ Thiên Nhãn Quan Âm Bồ Tát
Thiên Thủ Thiên Nhãn Quan Âm Bồ Tát


Hình tướng của Thiên Thủ Quan Âm :

Đức Phật Quan Âm Thiên Thủ Thiên Nhãn đứng trên tòa sen trong tư thế chữ nhất, nêu biểu sự hợp nhất của lòng từ bi và trí tuệ.

1. Phần Tay :



Đức Phật Thiên Thủ Quan Âm có 3 lớp tay: trong cùng là 8 tay tượng trưng cho Pháp thân, lớp ở giữa có 42 tay tượng trưng cho Báo thân, lớp tay ngoài cùng tượng trưng cho Hóa thân. Các tay của Đức Quan Âm tượng trưng cho phương tiện, trên mỗi bàn tay có một con mắt tượng trưng cho trí tuệ. Con mắt trong lòng bàn tay hàm ý sự hợp nhất của phương tiện và trí tuệ Phật. Tám cánh tay ở lớp trong cùng tượng trưng hoa sen tám cánh, đồng thời tương ứng với tứ trí (Đại Viên Cảnh trí, Diệu Quan sát trí, Bình đẳng tính trí, Thành sở tác trí) và tứ đức (từ, bi, hỷ, xả).

Hai cánh tay trong cùng của Đức Quan Âm đang ôm ngọc Mani. Ngọc Mani là biểu tượng của sự viên mãn tâm nguyện thế gian và xuất thế gian. Ở ý nghĩa sâu sắc hơn đó là sự giàu có tâm bồ đề. Hình ảnh bàn tay ôm ngọc mani chính là biểu tượng của sự hợp nhất giữa lòng từ bi vô lượng và trí tuệ siêu việt của đức Phật.



Các Cánh Tay Còn Lại:
  • Cánh tay cầm chuỗi tràng thủy tinh là biểu tượng của lòng từ bi, sự thanh tịnh và việc lần chuỗi tràng chính là sự cứu độ liên tục không ngừng nghỉ của ngài.
  • Cánh tay cầm pháp luân nêu biểu việc ngài mang giáo pháp của Đức Phật ban trải và cứu độ khắp nơi – chuyển bánh xe pháp vô ngại của đức Quan Âm .
  • Cánh tay chỉ xuống là biểu tượng cho vô úy thí: ngài ban gia trì cho chúng sinh vượt qua sự sợ hãi, vượt qua mọi khổ đau phiền não, bởi vì chúng sinh từ lúc sinh ra đã bị ám ảnh  bởi rất nhiều nỗi sợ hãi (nỗi sợ hãi bao trùm, từ lúc sinh ra cho tới lúc chết đi: sợ đói, nghèo, bất hạnh, không danh vọng...) chính vì thế Đức Phật Quan Âm hiện cánh tay thí vô úy để cứu khổ ban cho chúng sinh những viên mãn tâm nguyện thế gian.
  • Cánh tay cầm hoa sen: tượng trưng cho Bồ đề tâm thanh tịnh, phẩm hạnh giác ngộ của chư Phật, cũng như hoa sen mọc từ bùn mà không nhiễm nhơ, tiêu biểu cho bản nguyện của ngài vào dời cứu khổ chúng sinh mà không bị chi phối.
  • Cánh tay cầm cung tên: xạ thủ giương cung;  mắt - cung - đích trên cùng 1 đường tượng trưng cho sự rõ ràng, hợp nhất của căn, đạo quả (mục đích, con đường tu tập, và thành tựu). Bàn tay của Đức Phật Quan Âm cầm cung tên tượng trưng cho sự nhất tâm điều phục tất cả mọi vọng tưởng, giải thoát khỏi luân hồi, đánh bại 4 ma (tử ma, ngũ ấm ma, phiền não ma, thiên ma).
  • Cánh tay cầm bình cam lồ: tượng trưng cho năng lượng pháp vị cam lồ, tượng trưng sự gia trì của chư Phật để diệt trừ tất cả phiền não đau khổ tham sân si của chúng sinh.
  • 42 tay ở giữa nêu biểu báo thân Phật, nêu biểu 42 thánh vị tu chứng (thập trụ, thập hạnh, thập địa, thập hồi hướng, đẳng giác và diệu giác) để cứu độ 25 cõi chúng sinh trải qua 42 thánh vị để thành tựu giác ngộ.
  • Lớp tay ngoài cùng tượng trưng cho Hóa thân phật đi tất cả các nẻo trong luân hồi để cứu độ chúng sinh. Mắt (trí tuệ) trong lòng bàn tay (phương tiện).

2. Phần Đầu :



Phần đầu của Đức Quan Âm (tiêu biểu cho 11 quả vị giác ngộ): gồm 5 tầng tượng trưng cho ngũ trí Phật; đầu trên cùng là biểu tượng của Pháp thân (Đức Phật Di Đà) nêu biểu cho chính đẳng chính giác, tiếp đến là Báo thân (Đức Kim Cương Thủ trong hiện tướng phẫn nộ chính là Bất không thành tựu Phật ở phương Nam), 3 tầng dưới (9 đầu còn lại) là biểu tượng của Hóa thân.

3. Phần Mặt :

Phật Thiên Thủ Thiên Nhãn Bồ Tát có 9 khuôn mặt :
  • Ba khuôn mặt ở giữa nêu biểu cho Đại viên cảnh trí là Đức Phật A Súc Bệ ở phương Đông, 3 mặt này hiện tướng từ bi vì thấy chúng sinh làm thiện mà ngài sinh tâm an lạc, đại từ đại bi.
  • Ba mặt bên trái nêu biểu sự hàng phục ngã ái – bình đẳng tính trí của đức Bảo Sinh Phật ở phương nam. Ba mặt này vì thấy chúng sinh làm ác mà khởi tâm phẫn nộ, hàng phục chuyển hóa những chúng sinh cương cường khó độ.
  • Ba khuôn mặt bên phải nêu biểu năng lực thuyết pháp của Diệu quan sát trí của Phật A Di Đà ở phương Tây.
Đức Quan Âm Thiên Thủ Thiên Nhãn mang trên mình các sức trang hoàng, tương ứng với Ngũ bộ Phật và Ngũ Trí.
  • Khuyên tai tương ứng với Đức Phật A Di Đà, nêu biểu cho Diệu quan sát trí
  • Vòng cổ tương ứng với đức Phật Bảo Sinh, nêu biểu cho Bình đẳng tính trí
  • Các vòng tay tương ứng với Phật Tỳ Lư Giá Na, nêu biểu Pháp giới thể tính trí
  • Đai lưng Phật tương ứng với Phật Bất Không Thành Tựu, nêu biểu Thành sở tác trí
  • Mũ (vương miện) tương ứng Phật A Súc Bệ, tiêu biểu Đại viên cảnh trí
  • Ba lọn tóc của Đức Quan Âm nêu biểu năng lực bi, trí, dũng đồng thời tượng trưng cho tam bình đẳng (Phật, chúng sinh và tâm đều bình đẳng không sai khác).
Đức Quan Âm khoác tấm da nai, tượng trưng cho bi nguyện đồng sự của ngài. Ngài đi vào lục đạo luân hồi, đồng cam cộng khổ với chúng sinh.


Phật Thiên Thủ Bồ Tát Độ Mệnh Cho Tuổi Nào?

Đức Phật Quan Âm Thiên Thủ Thiên Nhãn là 1 trong 8 vị Phật Hộ Mệnh cho 12 Con Giáp, ngài là vị Phật Bản Mệnh cho người tuổi Tý. Ngài giúp những người tuổi Tý khắc phục những tật xấu như kén chọn, khó tính và đa nghi, giúp cho họ mọi việc được thuận lợi như ý, cầu được ước thấy. Người tuổi Tý sinh vào các năm là 1936, 1948, 1960, 1972, 1984, 1996 và 2008 sẽ nhận được sự phù hộ của Phật Thiên Thủ.




Bài đăng phổ biến từ blog này

5 Đại Minh Vương Của Mật Giáo

8 Vị Bồ Tát Phổ Biến Trong Phật Giáo

12 Hình Ảnh Đẹp Nhất Về Hư Không Tạng Bồ Tát