25 Vị Bồ Tát Ở Tây Phương Cực Lạc
Phật nói Kinh Thập Vãng Sinh A Di Đà Phật Quốc ghi chép là: Đức Phật bảo Đại Chúng: “Sau khi Ta diệt độ, hãy thọ trì Kinh này, trong tám vạn kiếp, rộng tuyên lưu bố cho đến một ngàn Đức Phật đời Hiền Kiếp (Bhadra-kalpa), khiến khắp các chúng sinh được nghe biết, tin tưởng, ưa thích tu hành. Người nói, người nghe đều được sinh về nước của Đức Phật A Di Đà. Nếu có người thuộc nhóm như vậy thời Ta từ ngày hôm nay thường sai khiến 25 vị Bồ Tát hộ trì người đó, thường khiến cho người đó không có bệnh, không có bực bội. Hoặc Người (Manuṣya), hoặc Phi Nhân (Amanuṣya) chẳng được dịp thuận tiện gây hại. Đi, đứng, ngồi, nằm không có kể ngày hay đêm thường được an ổn.
Nếu có chúng sinh tin sâu Kinh đó, niệm A Di Đà Phật, nguyện được vãng sinh thời Đức Phật A Di Đà của Thế Giới Cực Lạc ấy sai khiến Quán Thế Âm Bồ Tát (Avalokiteśvara), Đại Thế Chí Bồ Tát (Mahā-sthāma-prāpta), Dược Vương Bồ Tát (Bhaiṣaijya-rāja), Dược Thượng Bồ Tát (Bhaiṣaijya-samudgata), Phổ Hiền Bồ Tát (Samanta-bhadra), Pháp Tự Tại Bồ Tát (Dharmeśvara), Sư Tử Hống Bồ Tát (Siṃha-nāda), Đà La Ni Bồ Tát (Dhāranī), Hư Không Tạng Bồ Tát (Ākāśa-garbha), Đức Tạng Bồ Tát (Guṇa-garbha), Bảo Tạng Bồ Tát (Ratna-garbha), Kim Tạng Bồ Tát (Suvarṇa-garbha), Kim Cương Bồ Tát (Vajra), Sơn Hải TuệBồ Tát (Giri-sāgara-mati), Quang Minh Vương Bồ Tát (Raśmi-prabha-rāja), Hoa Nghiêm Vương Bồ Tát (Avataṃsaka-rāja), Chúng Bảo Vương Bồ Tát, Nguyệt Quang Vương Bồ Tát (Candra-prabha-rāja), Nhật Chiếu Vương Bồ Tát (Divā-kara-rāja), Tam Muội Vương Bồ Tát (Samādhi-rāja), Tự Tại Vương Bồ Tát (Īśvara-rāja), Đại Tự Tại Vương BồTát (Maheśvara-rāja), Bạch Tượng Vương Bồ Tát (Śukla-hasta-rāja), Đại Uy Đức Vương Bồ Tát (Mahā-teja-rāja), Vô Biên Thân Bồ Tát (Ananta-kāya). Hai mươi lăm vị Bồ Tát như vậy ủng hộ Hành Giả, hoặc đi, hoặc đứng, hoặc ngồi, hoặc nằm, hoặc ban ngày, hoặc ban đêm, tất cả Thời, tất cả nơi chốn...chẳng để cho Quỷ ác, Thần ác được dịp thuận tiện gây hại”.
1. Quán Thế Âm Bồ Tát (Avalokiteśvara): hầu cận bên trái Đức Phật A Di Đà (Amitāyus-buddha), hai tay bưng đài sen, hơi nghiêng thân, khuôn mặt mỉm cười, tỏ vẻnghênh tiếp Hành Giả niệm Phật. Ngài hầu bên trái đức A-Di-Đà, hai tay bưng đài sen tiá, phần trên của thân hơi nghiêng về phía trước. Ngài đứng trên hoa sen. Có tượng ngồi, gương mặt mỉm cười, tỏ vẻ nghinh tiếp hành giả niệm Phật.
2. Đại Thế Chí Bồ Tát (Mahā-sthāma-prāpta): Hầu bên phải Đức Phật A Di Đà, chắp hai tay lại để giữa ngực, khen ngợi Hành Giảđược vãng sinh về Thế Giới Cực Lạc (Sukhā-vatī) . Song song với đức Quán Thế Âm, Ngài hầu bên phải Phật A Di Đà, hai tay chắp lại, đứng hoặc ngồi trên đài sen. Ngài chủ trì việc khen ngợi hành giả được vãng sanh thế giới cực lạc.
3. Dược Vương Bồ Tát (Bhaiṣaijya-rāja): Ngửa lòng bàn tay trái để ngang ngực cầm bình thuốc, tay phải cầm cây phướng, tỏ vẻ hoan nghênh Hành Giảđược sinh vềThế Giới Cực Lạc.
4. Dược Thượng Bồ Tát (Bhaiṣaijya-samudgata): hai tay cầm cây phướng, khuôn mặt tươi cười, đứng thẳng chân phải, co chéo chân trái hướng đầu gối về bên trái
5. Phổ Hiền Bồ Tát (Samanta-bhadra): hai tay cầm cây lọng, khuôn mặt tươi cười, hông thường Ngài cưỡi voi trắng, trong số 25 vị Bồ-tát này, hình tượng của Ngài có hai tay bưng lọng che, tỏ vẻ tán thán hành giả mới được vãng sanh.
6. Pháp Tự Tại Bồ Tát (Dharmeśvara): Tay trái cầm hoa sen, dựng đứng cánh tay phải, ngửa lòng bàn tay, co ngón cái vịn ngón giữa, hơi cong ba ngón còn lại, biểu hiện sự vui vẻ, nghênh tiếp Hành Giả với lời ca điệu múa. Tôn này được xem là đồng Thể với Bồ Tát Văn Thù
7. Sư Tử Hống Bồ Tát (Siṃha-nāda): Đứng thẳng duỗi chân phải, co chân trái, hai tay vỗ cái trống đeo trước bụng, bày tỏ uy đức dũng mãnh giống như vua sư tửkhuất phục muông thú giáng phục Ma Oán, chế ngự Ngoại Đạo, xa lìa hẳn các sự trói buộc ngăn che, tâm thường an trụ giải thoát vô ngại.
8. Đà La Ni Bồ Tát (Dhāraṇī): co chân phải, ngón chân trái, hai tay biểu thị theo thế nhảy múa. Tôn này có khả năng ôm giữ thống nhiếp mọi tư tưởng, giúp cho Hành Giả chế ngự Pháp ác tăng trưởng Pháp Thiện, nảy sinh Công Đức diệu thiện .
9. Hư Không Tạng Bồ Tát (Ākāśa-garbha): co chân tái, duỗi chân phải, hai tay cùng biểu thị thế nhảy múa. Tôn này biểu thị cho sự tự tại vô ngại, không có nhiễm dính giống như hư không.
10. Đức Tạng Bồ Tát (Guṇa-garbha): Nhón gót chân phải, co chéo chân trái làm thế nhảy múa, hai tay cầm cái Sênh để thổi. Tôn này có Tâm Bi vô lượng, ứng với căn cơ của chúng sinh, mở kho báu của Đức Đại Bi (Kāruṇa-guṇa) để làm lợi ích giáo hóa chúng sinh.
11. Bảo Tạng Bồ Tát (Ratna-garbha): Co chân trái, duỗi chân phải làm thế nhảy múa, hai tay cầm ống sáo để thổi. Tôn này có bảy loại báu chân thật, ứng với tất cảước nguyện của chúng sinh, tùy theo thời mà Ngài mở kho báu chu cấp cho tất cả chúng sinh khiến cho họ có thểđạt được các loại ân huệ.
12. Kim Tạng Bồ Tát (Suvarṇa-garbha): Duỗi thẳng chân trái, co chân phải, hai tay cầm ống tiêu để thổi. Tôn này có đầy đủ Công Đức giống như vàng ròng chẳng bịnước lửa xâm phạm. Do vậy Tôn này biểu thị cho Công Đức trong sạch vững bền không có gì làm vấy bẩn được.
13. Kim Cương Tạng Bồ Tát (Vajra-garbha): Duỗi chân trái, co chéo chân phải, hai tay cầm cây đàn Cầm.Tôn này có đầy đủ Trí Tuệ Kim Cương chẳng hoại, giúp cho tất cả chúng sinh dứt trừ hết các sự nghi hoặc và phiền não chướng. Do Ngài dùng Đại Công Đức không có cùng tận giúp ích cho chúng sinh, cho nên được tên gọi là Kim Cương Tạng.
14. Sơn Hải Tuệ Bồ Tát (Giri-sāgara-mati): Nhón gót chân trái, co chéo chân phải, hai tay ôm gẩy cây đàn Không Hầu. Tôn này có Trí Đức cao khiết, giáo hóa và làm lợi ích cho tất cả chúng sinh. Do Trí Đức của Ngài giống như núi cao, biển sâu nên có tên gọi là Sơn Hải Tuệ.
15. Quang Minh Vương Bồ Tát (Raśmi-prabha-rāja): Đứng ôm gảy Đàn Tỳ Bà. Tôn này có Trí Tuệ sáng suốt như chư Phật không có gì vượt qua nổi, do vậy có tên gọi là Quang Minh Vương
16. Hoa Nghiêm Vương Bồ Tát (Avataṃsaka-rāja): Nhón gót chân phải, co chéo chân trái, hai tay cầm cái dùi gõ đánh nhạc cụ. Tôn này dùng vạn hạnh như hoa trang nghiêm quảĐịa, hoặc lấy Pháp Thân để trang nghiêm quảĐịa ấy cho nên được gọi là Hoa Nghiêm .
17. Chúng Bảo Vương Bồ Tát (Gaṇa-ratna-rāja): nhón hai gót chân, hai tay cầm cái Nạo Bạt (xập xõa) đểđánh. Tôn này có bảy loại báu chân thật, gom tập tất cả các châu báu vào một thân, ứng hợp với căn cơ của chúng sinh để cấp phát bình đẳng cho tất cả.
18. Nguyệt Quang Vương Bồ Tát (Candra-prabha-rāja): nhón gót chân trái, đá chân phải làm thế nhảy múa, tay trái giương chưởng để dưới ức ngực, tay phải gio cao cầm cái trống rung. Tôn này dùng Tính Đức không khuyết thiếu như mặt trăng tròn sáng để hóa độ và làm lợi ích cho tất cả chúng sinh.
19. Nhật Chiếu Vương Bồ Tát (Divākara-rāja): nhón gót chân trái, đá chân phải làm thế nhảy múa, hai tay cầm cây dùng đánh cái trống treo trước bụng. Tôn này dùng Trí Tuệ sáng suốt như mặt trời phá tan hết thảy mọi ám tối của chúng sinh. Ngài dùng Trí Đức để hóa độ và làm lợi ích cho tất cả chúng sinh.
20. Tam Muội Vương Bồ Tát (Samādhi-rāja): Nhón gót chân phải, đá chéo chân trái làm thế nhảy múa, hai tay cầm cái bảng, lộ vẻ vui thích ca ngâm. Tôn này có được phần Đức tự tại trong Tam Muội nên có tên gọi là Tam Muội Vương .
21. Định Tự Tại Vương Bồ Tát (Samādhīśvara-rāja): Nhón gót chân trái, đá chéo chân phải làm thế nhảy múa, hai tay đều cầm cây dùi đánh cái trống lớn ở trước bụng. Tôn này ở trong Thiền Định có thể biến hóa tự tại, có đủ phần Đức tự tại vô ngại, cho nên có tên gọi là Định Tự Tại Vương .
22. Đại Tự Tại Vương Bồ Tát (Maheśvara-rāja): duỗi thẳng chân trái, đá chéo chân phải, hai tay cầm cái lọng có treo các chuỗi ngọc báu. Tôn này dùng phần Đức biến hóa tự tại vô ngại để cứu độ tất cả chúng sinh, cho nên có tên gọi là Đại Tự Tại Vương .
23. Bạch Tượng Vương Bồ Tát (Śukla-hasta-rāja): duỗi thẳng chân trái, đá chéo chân phải, hai tay cầm cái lọng báu. Tôn này có uy đức to lớn giống như con voi trắng có đầy đủ muôn Đức hay phát lực Đại Từ. Ngài dùng uy lực đó để cứu giúp tất cảchúng sinh, cho nên có tên gọi là Bạch Tạng Vương .
24. Đại Uy Đức Vương Bồ Tát (Mahā-teja-rāja): Đứng thẳng, hai tay cầm hoa sen, khuôn mặt tươi cười nhìn nhó xuống bên dưới. Tôn này hay dùng uy đức rộng lớn vô biên để cứu độ tất cả chúng sinh, cho nên có tên gọi là Đại Uy Đức Vương .
25. Vô Biên Thân Bồ Tát (Ananta-kāya): Đứng thẳng, hai tay bưng lò hương. Tôn này được xem là đồng Thể khác tên gọi với Bồ Tát Địa Tạng .