A Súc Bệ Như Lai – Phật Bất Động – 1 Trong 5 Vị Phật Ngũ Trí Như Lai

 


Phật Bất Động – A Súc Bệ là Ai?

A Súc Bệ Như Lai hay gọi là Bất Động Phật: Một trong Năm vị Phật Ngũ Trí Như Lai

Tên Phạn: Akshobhya Buddha

Tên Tạng: མི་བསྐྱོད་པ་ Mikyöpa hoặc Mitrugpa

Lưu ý: Dễ nhầm lẫn giữa hình Phật A Súc Bệ và Phật Dược Sư, Cả hai vị đều có thân xác xanh trời, nếu muốn biết sự khác biệt, chú ý trong tay Phật A Súc Bệ cầm một chày kim cương trong khi Đức Phật Dược Sư giữ bát thuốc.

 

 Phật Bất Động hay Phật A-súc-bệ là một vị Phật được tôn thờ trong Đại thừa và Kim Cang thừa. Phật A-súc là một trong năm vị Ngũ trí Như Lai của Mật Tông. Theo kinh A-súc Phật Quốc (Taisho 313), Tịnh độ của Bất Động Như Lai tên là Diệu Hỷ quốc (Abhirati), nằm ở phía Đông cõi Ta-bà (Saha).

Trong Duy-ma-cật Sở Thuyết Kinh, cư sĩ Duy-ma-cật (Vimalakīrti) là một vị Bồ-tát đến từ quốc độ của Phật A-súc. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni (Sakyamuni) đã yêu cầu Duy-ma-cật chỉ cho pháp hội quán cõi Diệu Hỷ và ngài đã dùng sức thần thông để hiện nước Phật A-súc cho họ xem.

Đức Bản sư đã thụ ký cho nhiều người sẽ được tái sinh cõi nước này. Sau đó, ông Duy-ma-cật thu phép thần thông lại (phẩm 12. Thấy Phật A-súc).

Bất Động Như Lai thường bị nhầm lẫn với Bất Động Minh Vương (Acala) dù ngài Bất Động Minh Vương là một trong năm vị Minh Vương và cũng là một trong những vị Hộ pháp (Dharmapala) quan trọng của Mật giáo.

 


 

Ngũ trí Như Lai Bao Gồm Những Vị Phật?

Ngũ Phật còn gọi là Ngũ Trí Như Lai, Ngũ Trí Phật, Ngũ Phương phật, hay còn được gọi  Ngũ Thiền Định Phật; là tên gọi chỉ năm vị Phật trong Mật Tông, lấy Đại Nhật Như Lai (Tỳ Lô Giá Na Như Lai) làm chủ tôn, có sự khu biệt giữa Ngũ Phật giới Kim Cương và Ngũ Phật giới Thai Tạng.

Năm đức Phật này đại diện cho 5 phẩm chất của con người và tạo ra sự tuyệt mỹ và hay nhất để phá bỏ những sai trái trong 5 phẩm chất đó. Mỗi đức Phật là một con đường tuyệt diệu để đi đến cảnh giới Niết Bàn và Vô sanh. Tu theo những vị đó sẽ mau chóng vào được cung điện Niết Bàn.

Ngũ trí Như Lai là 5 vị Phật tối cao của Phật giáo Tây Tạng:

  • Đại Nhật Như Lai (Tỳ Lô Giá Na Như Lai, Vairochana)
  • A Súc Bệ Như Lai (Akshobhya)
  • Bảo Sanh Như Lai (Ratnasambhava)
  • A Di Đà Như Lai (Amitabha)
  • Bất Không Thành Tựu Như Lai (Amoghasiddhi)

 


 Hình tướng Đức A Súc Bệ Như Lai

Đức Bất Động Phật A Súc Bệ an trụ trên bảo tòa được tám Tượng vương nâng đỡ. Thân Ngài sắc xanh dương, an tọa trong tư thế kim cương. Tay phải Ngài kết ấn Xúc địa, tay trái trong tư thế thiền định, trì giữ Chày Kim Cương năm chẽ.

Ngài được trang hoàng bằng trang sức báo thân. Ngài hiện thân trong sắc tướng như vậy giống như trí tuệ bản lai Đại viên cảnh trí đã nằm sẵn trong tâm chúng ta.

 

 Ý Nghĩa thờ tượng A Súc Bệ Như Lai

Đức A Súc Bệ Phật có thân sắc xanh dương tượng trưng cho Thủy đại, và nước cũng có khả năng phản chiếu như một chiếc gương.

Biểu tượng của Ngài là chày Kim Cương, tượng trưng cho cảnh giới giác ngộ, tính Phật sẵn có nơi mỗi người không thể phá hủy, không thể chia cắt, bất động và bất biến.

Ngài là hiện thân của tâm sân giận đã hoàn toàn được tịnh hóa. Sân giận là cảm xúc mãnh liệt thúc đẩy sự đối nghịch với những đối tượng mà ta không thích.

Khi cơn tức giận nổi lên, chúng ta thường có những lời nói hoặc hành động nghiệt ngã làm đau lòng hoặc tổn thương người khác.

Tuy vậy, tự tính thanh tịnh của trạng thái giận dữ đó thực ra chính là A Súc Bệ Phật. Sự tức giận khi được tịnh hóa và nhận biết sẽ trở thành Đại Viên Cảnh Trí.

Với trí tuệ này, chúng ta có thể nhìn thấy bản chất thật của mọi thứ một cách khách quan, không giả tạo.

Bất kể đối tượng là một bông hồng đỏ thắm hay một con dao găm nhuốm máu, chiếc gương trí tuệ này sẽ phản chiếu cả hai theo bản chất vốn có của chúng, không phán xét hay phân biệt hai màu đỏ, không cố gắng khen ngợi bông hồng hay quy kết chối bỏ con dao đầy máu, không khước từ và không bám chấp.

Chiếc gương luôn giữ được vẻ điềm tĩnh, bất biến. Tâm chúng ta cũng nên như vậy cho dù ở trong hoàn cảnh thuận lợi hay bất lợi.

 Nguồn gốc tên gọi của Phật A-súc

Khi còn là Bồ-tát, ngài đã phát nguyện trước Đức Đại Mục Như Lai rằng sẽ không nổi tâm sân hận với nhân loại và cả côn trùng nhỏ bé nên mới được gọi là A-súc-bệ (Bất Phẫn Nộ/ Bất Động).

“Này Xá-lợi-phất! Vị Tì-kheo đó đã chuẩn bị áo giáp Tứ hoằng đại nguyện, là Đại Bồ-tát mới phát khởi ý ấy, cho nên đối với tất cả nhân loại, loài côn trùng nhỏ bé không có tâm sân hận, cũng không có hận thù.

Các đại nguyện của Bồ-tát A-súc

  1. Không khởi sân hận với tất cả nhân loại và loài côn trùng nhỏ nhiệm. Không cầu Thanh Văn Đạo, Duyên Giác Đạo. Không khởi ý niệm dâm dục. Không nghĩ nhớ đến ngủ nghỉ và có các niệm tưởng do dự. Không có ý niệm hồ nghi.
  2. Không khởi ý niệm sát sinh, trộm cắp tiền bạc, vật dụng người khác. Không khởi ý niệm phi phạm hạnh, không khởi ý niệm nói dối, không khởi ý niệm hối hận.
  3. Không khởi niệm ý niệm mắng chửi, ác khẩu, nói lời thêu dệt. Không ngu si, không khởi ý niệm tà kiến.
  4. Phụng hành lời phát nguyện trên, phát tâm cầu Nhất thiết chủng trí, gìn giữ giới luật.
  5. Thuyết pháp cho người, đời đời làm pháp sư, nói điều có hạnh cao minh, không bị chướng ngại. Có trí vô lượng cao minh, làm sa-môn thường thành hạnh khất thực.
  6. Làm sa-môn thường ngồi dưới gốc cây, tinh tấn thực hành ba việc: kinh hành, tọa thiền, an trụ. Không phát ý niệm tính tội, vọng ngữ dối trá người, nói lời phỉ báng dua nịnh, vì lý do ăn uống. Không khởi ý tưởng cười cợt để thuyết pháp.
  7. Gặp các Bồ-tát phát tâm Phật, không phát sinh ý niệm cúng dàng người ngoại đạo, xa lìa chư Như Lai; không ngồi trên tòa cao nghe pháp.
  8. Không khởi ý niệm: “Ta sẽ (không) bố thí cho ai.”, “Ta sẽ ở nơi nào (không) lập phước thí.”, “Ta thường đem pháp (không) bố thí cho ai. Gặp người nghèo khổ, cô độc thì phân chia thân mạng cho người đó.
  9. Luôn ở nơi ý nguyện Bồ tát đến khi thành đạo, giác ngộ cao tột.
  10. Quốc độ không có tứ chúng phạm tội ác, tội xấu gièm pha. Chúng đệ tử không có tội ác, cõi Phật nghiêm tịnh.
  11. Không thất tinh trong mộng.
  12. Không còn người mẹ bất tịnh.
  13. Nếu không thoái chuyển thì dùng ngón tay phải ấn xuống sẽ làm cho đất bị chấn động mạnh.

Sau khi phát xong các lời đại nguyện, đức Đại Mục Như Lai thụ kí cho Bồ-tát sẽ đắc quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, hiệu là A-súc Như Lai.

Xá-lợi-phất! Vị Bồ-tát khi ấy vì không còn sân hận nên mới gọi là A-súc vì không còn hận thù nên trụ nơi đất A-súc. Đức Đại Mục Như Lai Vô Sở Trước Đẳng Chính Giác cũng hoan hỷ gọi tên này. Tứ Thiên Vương cũng hoan hỷ gọi tên ấy, trời Đế Thích và Phạm Tam Bát cũng hoan hỷ gọi tên ấy…”

 


 Thần chú Đức Phật A Súc Bệ Như Lai

Trì tụng chân ngôn Đà Ra Ni của Phật A Súc Bệ sẽ giúp phát tâm bồ đề chẳng tức giận, không có phẫn nộ.

Chân ngôn Đà Ra Ni Phạn ngữ có phiên âm Việt:

 Namo Bhagavate Akṣhobhāya Tathāgatāyārhate Saṃyaksaṃbuddhyāya. Tadyathā: Oṃ Kaṃkani Kaṃkani, Rotsani Rotsani, Troṭani Troṭani, Trāsani Trāsani, Pratihana Pratihana, Sarva Karma Paraṃparāṇime Sarva Sattvānañcha Svāhā

Âm Việt

 Nam Mô, Ba Ga Vá Tê, Ắc Sô Ba Da, Thát Tà Ga Tê, O Há Tê, Săm Dắt Săm Bu Đà Dà, Thát Da Ta: Ốm, Khầm Khanh Ni – Khầm Khanh Ni, Rột San Ni – Rột San Ni, Trồ Tan Nì – Trồ Tan Nì, Trà San Ni – Trà San Ni, Phá Tì Han Nà – Phá Tì Han Nà, Soa Và, Khoa Mà – Poa Rằm Poa Rà Ni Mề – Soa Và – Xach Va Nan Trà – Sô Hà

 Chân ngôn Đà Ra Ni chữ Tạng

 ན་མོ་རཏྣ་ཏྲ་ཡཱ་ཡ། ཨོཾ་ཀཾ་ཀ་ནི་ཀཾ་ཀ་ནི། རོ་ཙ་ནི་རོ་ཙ་ནི་ ཏྲོ་ཊ་ནི་ཏྲོ་ཊ་ནི། ཏྲཱ་ས་ནི་ཏཱ་ས་ནི། པྲ་ཏི་ཧ་ན་པྲ་ཏི་ཧ་ན། སརྦ་ཀརྨ་པ་རཾ་པ་ར་རཱ་ནི་མེ་སྭཱཧཱ། ན་མོ་རཏྣ་ཏྲ་ཡཱ་ཡ། NAMO RATNA TRAYĀYA ཨོཾ་ཀཾ་ཀ་ནི་ཀཾ་ཀ་ནི། OṂ KAṂKANI KAṂKANI རོ་ཙ་ནི་རོ་ཙ་ནི་ ROCHANI ROCHANI ཏྲོ་ཊ་ནི་ཏྲོ་ཊ་ནི། TROṬANI TROṬANI ཏྲཱ་ས་ནི་ཏཱ་ས་ནི། TRĀSANI TRĀSANI པྲ་ཏི་ཧ་ན་པྲ་ཏི་ཧ་ན། PRATIHANA PRATIHANA སརྦ་ཀརྨ་པ་རཾ་པ་ར་རཱ་ནི་མེ་སྭཱཧཱ། SARVA KARMA PARAMPARĀṆI ME SVĀHĀ

Khi còn ở Nhân Địa thời thọ nhận sự khải phát của Đức Đại Mục Như Lai nên phát khởi Thệ Nguyện: “Đối với tất cả chúng sinh chẳng khởi sự tức giận” mà được tên gọi là A Súc.

A Súc tức là ý nghĩ: chẳng tức giận, không có phẫn nộ. Do đó có tên gọi là Bất Động hoặc Vô Động. Như thế có Mật Hiệu là Bất Động Kim Cương. Bất Động này là chỉ sự chẳng động của thân, sự chẳng động của tâm đối với tất cả.

Sự chẳng động của Tâm (tâm bất động) chỉ Tâm chẳng thọ nhận nơi dao động của tạp nhiễm, chẳng bị lay động bởi tám loại gió (bát phong); khi mới phát tâm , trong lý Nhân Duyên chẳng bị lay động bởi Tâm sân (giận dữ).


Bài đăng phổ biến từ blog này

5 Đại Minh Vương Của Mật Giáo

8 Vị Bồ Tát Phổ Biến Trong Phật Giáo

12 Hình Ảnh Đẹp Nhất Về Hư Không Tạng Bồ Tát