Đại Hắc Thiên Mahakala – Sắc Tướng Uy Mãnh Của Đức Quan Âm Đại Bi

Đại Hắc Thiên – Mahākāla là một vị thần được biết đến trong Ấn Độ giáo và Phật giáo Mật tông. Trong cả hai tôn giáo, Mahākāla là một biểu hiện khốc liệt của Shiva và là sự phối ngẫu của nữ thần Mahākālī; Ngài nổi bật nhất xuất hiện trong giáo phái Kalikula của Shaktism.


 Mahākāla cũng xuất hiện với tư cách là một vị thần bảo vệ được gọi là Dharmapala (Hộ Pháp) ở Vajrayana, bí truyền Trung Quốc và Phật giáo Tây Tạng, và cũng ở Truyền thống Chàn và Shingon.

Ngài được biết đến với cái tên là Dahritian và Daiaihhaktin (大 黑) trong tiếng phổ thông và tiếng Quảng Đông, Daeheukcheon (대흑천) tại Hàn Quốc, Đại Hắc Thiên: tiếng Việt và Daikokuten (大) trong tiếng Nhật.

Mahā “Tuyệt vời” và Kāla “Time / Death”, có nghĩa là “ngoài thời gian” hoặc chết. Tây Tạng: ནག་པོ་ ཆེན་ པོ., THL: Nak Po Chen Po có nghĩa là “Black Black One”. Tây Tạng: མགོན་ པོ., THL: Gay Po “Người bảo vệ” cũng được sử dụng để giới thiệu cụ thể với Mahākāla.

 


Mahakala thường có màu đen. Giống như tất cả các màu được hấp thụ và hòa tan thành màu đen, tất cả tên và hình thức được cho là tan chảy vào những người của Mahakala, tượng trưng cho bản chất toàn diện, toàn diện của Ngài.

Màu đen cũng có thể đại diện cho sự vắng mặt hoàn toàn màu sắc và một lần nữa trong trường hợp này, nó biểu thị bản chất của Mahakala là thực tế tối thượng hoặc tuyệt đối.

Ý Nghĩa & Hình Tượng Mahakala

Đại Huyền Kim Cương Hộ pháp Mahakala được coi là sắc tướng uy mãnh do Đức Quan Âm Đại Bi hóa hiện, nêu biểu thần lực, trí tuệ và các công hạnh bi mẫn uy mãnh của chư Phật.

Mahakala là Hộ pháp hàng đầu, uy mãnh và tràn đầy thần lực, tiêu trừ ác nghiệp, các chướng ngại, và các hoàn cảnh bất lợi. Mahakala bảo vệ Phật pháp tránh khỏi sự suy thoái, tiêu trừ các thế lực gây chướng ngại đối với Phật pháp và, dẫn dắt các hành giả và bảo vệ họ tránh khỏi tất cả các vô minh và mê lầm.

 


Mahakala Tứ Thủ là hộ pháp đặc biệt bảo vệ các giáo pháp. Ngài nêu biểu sự giận dữ và bi mẫn kim cương. Bốn tay Ngài nêu biểu bốn công hạnh giác ngộ: Tay trái cầm một chén sọ đựng cam lộ, là phương tiện thực hành tức tai, tiêu trừ bệnh tật, các chướng ngại.

Một tay phải cầm dao cong, nêu biểu tăng ích, tăng trưởng tuổi thọ, các phẩm chất tốt đẹp và trí tuệ. Tay phải thứ hai cầm một thanh gươm, nêu biểu kính ái, tập hợp mọi thứ hành giả cần và đưa chúng sinh đến với Phật pháp.

Tay trái còn lại cầm một cây chĩa ba hàng phục chướng ngại. Ba chẽ của cây chĩa ba chặt đứt tam độc (tham, sân, si), tiêu trừ các mê lầm, nghi ngờ và vô minh.

Thân Hộ pháp Mahakala có sắc xanh dương đậm, nêu biểu cho Pháp thân bất biến. Ba mắt nêu biểu sự hiểu rõ ba đời, và là sự hóa hiện sinh động của Tam thân Phật.

Mũ miện năm sọ nêu biểu sự chuyển hóa ngũ độc (tham, sân, si, tật đố, ngã mạn) thành Ngũ Trí. Hai chân nêu biểu phương tiện và trí tuệ. Chân phải co, chân trái duỗi nêu biểu việc Ngài viên mãn tự lợi và lợi tha.

Ngài dẫm lên một quỷ thần, nêu biểu việc Ngài tiêu trừ các chướng ngại to lớn. Tòa mặt trời dưới chân Ngài nêu biểu Ngài soi rọi bóng đêm vô minh.

Tòa sen nêu biểu sự thanh tịnh không có nhiễm ô của luân hồi. Vầng lửa rực sáng xung quanh nêu biểu công hạnh của Ngài tiêu trừ các vọng tưởng trong tâm.

Tấm da hổ Ngài khoác nêu biểu sự tịnh hóa tham muốn; tấm da voi nêu biểu sự tịnh hóa kiêu mạn, và tấm da rắn nêu biểu sự tịnh hóa sân giận. Tất cả các sức trang hoàng khác của Ngài nêu biểu Ngài có đầy đủ các phẩm chất của Phật.

“Thần Chú Mahakala Đại Huyền Kim Cương Hộ Pháp

Om Shri Mahakala Hum Phat (Phe)

//

Om Shri Mahakala Hum Hum Phat Svaha

 


Huyền Thoại về Đại Hắc Thiên Mahakala

Huyền thoại về lịch sử của Mahakala được viết bởi Khedrup Khyungpopa, là người sáng lập dòng truyền thừa Shangpa Kagyu, vào thế kỉ thứ 11. Ngài dạy rằng sức mạnh đặc biệt cũng như năng lực kì diệu của Mahakala là do nguyện lực của đức Avalokiteshvara (Quan Thế Âm).

Ngài nguyện còn sinh tử và quyết không thành Phật nếu còn chúng sanh chưa được giác ngộ. Sau khi giúp hàng trăm ngàn người, trong vô số đời đạt tới giác ngộ.

Ngài thấy rằng sự đau khổ không hề giảm sút mà hơn thế nữa sự ô nhiễm trong tâm thức chúng sanh ngày một tăng trưởng. Ngài thấy thất vọng, nhụt chí. Lúc đó lập tức đầu ngài vỡ tan thành trăm ngàn mảnh vụn.

Phật A Di Đà (Amitabha) một trong 5 vị Phật (Tỳ Lô Giá Na Phật, Bảo Sanh Phật, Khai Phu Hoa Vương Phật, A Di Đà Phật, Thiên Cổ Lôi Âm Phật) ghép những mảnh vỡ lại, và biến thành 11 đầu.

Sau đó ngài dặn dò đức Avalokiteshvara hãy thực hiện lại lời nguyện đó một lần nữa, nhưng giữ lời nguyện đó tốt hơn, kiên cố hơn. Do đó Avalokiteshvara có mười một đầu, và trong đó có mười đầu là hiền hoà và một đầu là phẫn nộ. Đầu phẫn nộ đó chính là đại diện cho Mahakala.

Ngài Avalokiteshvara buồn bã, trong khoảng thời gian 7 ngày. Ngài nghĩ rằng trên thế giới đầy những chúng sanh đau khổ cần một kết quả thật nhanh chóng mà không phải có quá nhiều nỗ lực.

Sau đó ngài muốn biến mình thành một bổn tôn phẫn nộ để đánh bại nhanh chóng và hiệu quả hơn những trở ngại cho hạnh phúc của người khác. Với tư tưởng này chữ HUM màu xanh đậm xuất hiện từ trái tim ngài. Chủng tự Hum đó đã trở thành Mahakala. Điều đó có nghĩa rằng trong câu thần chú ‘Om Mani Padme Hum’, chủng tự Hum tượng trưng cho sức mạnh, quyền năng.

Sự xuất hiện  của Mahakala kéo theo sự rung động của mặt đất, đồng thời có giọng nói của chư Phật vang vọng trong không trung chứng minh rằng Mahakala có đủ quyền năng làm ban phát những gì chúng sinh mong muốn nếu những mong muốn đó là trung thực và tốt

Mahakala là một hộ thần giám hộ cho người thống trị Mông Cổ- Thành Cát Tư Hãn- lúc bấy giờ. Sự phẫn nộ của Mahakala được xem  giống như hoá thân phẫn nộ của thần Siva.

Ở Tây Tạng, về hình ảnh của Mahakala thường có một đầu và ba mắt, lông mày như những ngọn lửa nhỏ và râu thì có dạng như hình móc câu. Mahakala có từ 2 đến 6 tay.

Điều tự nhiên cơ bản mà dân Tây Tạng thường thờ cúng Mahakala có lẽ là vì ngài là vị thần của lều trại. Bởi vì dân Tây Tạng sống du mục, do vậy thời gian ở lâu mau là phụ thuộc vào thiên nhiên và môi trường xung quanh, do vậy họ dùng lều trại, việc di chuyển và định cư tạm thời là một phần quan trọng của cuộc đời họ.

Ngoài ra ngài còn là một Hộ Pháp rất quan trọng, bởi thế cho nên ở mỗi tu viện đều có một nơi thờ Mahakala.

 


Hộ pháp Là Gì?

Hộ pháp (dharmapāla, dhammapāla) theo nhà Phật, nhất là phái Kim cương thừa (Vajrayāna) hay Thần Thánh là những vị thần bảo vệ Phật pháp và Phật tử. Những ai nguyện noi theo Thành tựu pháp (Sādhana) mà đọc câu Chân ngôn thì đều được các vị thần đó phù hộ.

Ngoài ra các vị Hộ Thế (Lokapāla), tức những vị thần (Thiện Thần) nguyện theo Phật cũng có chức năng như Hộ pháp.

Theo Phật Giáo Việt Nam

Phật giáo Việt Nam liệt kê nhiều vị thần như Phạm Thiên, Đế Thích, Kiên Lao, Địa Kỳ, Thiên Lý Nhãn, Thiên Lý Nhĩ… trong danh sách hộ pháp nhưng trong chùa thì có hai dạng chính.

Khuyến Thiện và Trừng Ác

Dạng Hộ pháp phổ biến là hai vị thần đối sánh thờ trong chùa mang tên Khuyến Thiện và Trừng Ác.

Đôi tượng Hộ pháp này thường tạc rất lớn, đầu cao chấm nóc nhà, bố trí ở hai bên tiền đường. Thần trang phục như võ tướng, đầu đội mũ trụ, mặc áo giáp, thân thể vạm vỡ, ngồi trên sư tử, có sẵn khí giới để bảo vệ đạo pháp.

Tượng thần Khuyến Thiện, tục gọi là “ông Thiện” thường tô mặt trắng, nét mặt thanh thản, đặt ở bên tay trái bàn thờ Phật (từ trong nhìn ra), tay cầm viên ngọc thiện tâm [Mani], là báu vật của Phật tử, khích lệ mọi người noi theo.

Tượng thần Trừng Ác thì tô mặt đỏ, đặt bên tay phải bàn thờ Phật; nét mặt thần giận dữ, lăm lăm vũ khí để trừng trị kẻ ác tâm như răn đe mọi người lánh xa con đường dẫn đến sa ngã.

Trong các chuyện tiền thân Phật thì các Ngài có tên là Thiện Hữu, Ác Hữu, hoặc La Đắc, Ma Pha La.

Theo Bát bộ Kim Cương

Dạng thứ hai là Bát bộ Kim Cương gồm tám vị thần cũng mặc võ phục nhưng không bài trí ở gần lối vào mà gần bàn thờ Phật vì đây là các vị thần linh có trách nhiệm bảo vệ Phật.

Tám vị kim cương đó lần lượt là:

  • Thanh Trừ Tai
  • Tích Độc Thần
  • Hoàng Tùy Cầu
  • Bạch Tịnh Thủy
  • Xích Thanh Hỏa
  • Định Trừ Tai
  • Tử Hiền Thần
  • Đại Lực Thần

 


Bát đại Hộ pháp của Phật giáo Tây Tạng

Một điều khó hiểu của Phật giáo đó là sự xuất hiện của các dạng hình tướng phẫn nộ, khủng khiếp… Có thể nói đó là những hình tướng xấu xí, ghê rợn đến sởn tóc gáy, và những hình tướng phẫn nộ này dường như đi ngược lại với tinh thần Phật Giáo.

Những hình tướng này không hề là biểu tượng cho cái ác hay là tượng trưng cho một ma lực nào đó…Mà thay vào đó chính là tượng trưng cho sự dũng mãnh của thực tại căn bản của vũ trụ nói chung, và tượng trưng cho tâm thức của con người  nói riêng.

Ngoài ra đó còn là sự tiêu diệt những mê muội hư vọng của tâm thức con người, và mục đích của các vị còn là sự bảo hộ cho lòng tín, đức tin. Những hộ thần phẫn nộ là những tượng trưng cho sự chế ngự dục vọng, đánh bại những điều xấu xa.

Những hộ thần thường có thân hình chắc nịch, ngắn nhưng dày… nhiều vị còn có nhiều đầu nhiều tay. Màu sắc của khuôn mặt các ngài thường đựơc hay so sánh với màu mây, màu đá quý…

Đó là lý do tại sao trong các sadhanas hay có những đoạn so sánh một vị hộ thần màu đen như đám mây xuất hiện cuối trời, hay là xanh như màu ngọc lục bảo, hoặc trắng như một ngọn núi pha lê, màu vàng như vàng ròng, hoặc màu đỏ như là những tia nắng nơi ngọn núi san hô đỏ…

Trong các sadhanas cũng có nói rằng các ngài phủ đầy người một lớp tro của các buổi lễ trộn với dầu mè hoặc là phủ khắp người những vết mỡ, những đốm máu và mỡ người.

Khuôn mặt của các ngài thường có những biểu hiện như sau: miệng mở một cười giận dữ, từ đó ló ra những chiếc răng nanh – người ta hay nói những chiếc nanh đó được làm bằng đồng hoặc sắt. Những con mắt đỏ ngầu đầy máu biểu lộ cho sự phẫn nộ. Thường thì các ngài có 3 mắt.

Điều quan trọng nhất trong nhóm các hộ thần đó chính là nhóm 8 vị, được biết đến như là các hộ pháp chính của Phật giáo Tây Tạng (Bát Đại Hộ Pháp), các hộ pháp này được xem như những vị bồ tát, và các ngài có nhiệm vụ chiến đấu một cách không khoan nhượng với bất kì thế lực ma quỷ nào cũng như những kẻ thù của Phật giáo .

Bát đại Hộ pháp của Phật giáo Tây Tạng bao gồm :

  • Yama (Dạ Ma)
  • Mahakala (Đại Hắc Thiên)
  • Yamantaka (Hàng Phục Dạ Ma)
  • Kubera (Tài Bảo Thiên Vương)
  • Hayagriva (Mã Đầu Minh Vương)
  • Palden Lhamo (Bạch Lạp Mỗ)
  • Tshangs pa (Phạm Thiên Trắng)
  • Begtse


 

Bài đăng phổ biến từ blog này

5 Đại Minh Vương Của Mật Giáo

8 Vị Bồ Tát Phổ Biến Trong Phật Giáo

12 Hình Ảnh Đẹp Nhất Về Hư Không Tạng Bồ Tát